Chảy máu mũi là tai biến rất hay gặp, nó không phải là một bệnh mà là triệu chứng của nhiều bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra.
Các nguyên nhân thường gặp nhất dẫn đến chảy máu mũi như sau:
Cao huyết áp
Đo huyết áp là một trong những động tác đầu tiên được thực hiện đối với bệnh nhân chảy máu mũi. Cao huyết áp là nguyên nhân thường gặp nhất của chảy máu mũi ở bệnh nhân trên 50 tuổi, vị trí chảy máu mũi thường ở phía sau.
Chảy máu mũi vô căn ở người trẻ
Người trẻ thường gặp phải chảy máu mũi vô căn, vị trí thường ở điểm mạch.
Sau khi đã ngưng chảy máu mũi, người bệnh được khám lâm sàng và thấy tình trạng giãn mạch ở vùng điểm mạch. Để tránh chảy máu mũi tái phát cần phải đốt vùng giãn mạch này. Có thể đốt bằng hóa chất, đôi khi bằng điện.
Đốt bằng hóa chất rất đơn giản: dùng que bông thấm dung dịch nitrate bạc hoặc acide trichloracetique áp vào vùng giãn mạch được nhìn rõ với một banh mũi. Đôi khi cần phải đốt nhiều lần.
Bao gồm trong nhóm nguyên nhân này còn có tình trạng chảy máu mũi có nguồn gốc nội tiết xuất hiện lúc dậy thì hoặc trong tháng đầu thai kỳ và cả chảy máu mũi do gãi vùng điểm mạch.
Gãi vùng điểm mạch thường kèm đóng vẩy hoặc ngứa da do staphylocoque (trong điều trị dùng pommade Aureomycine 3% hoặc pommade fucidine).
Một số nguyên nhân hiếm gặp hơn
Các bệnh chảy máu này có thể tác động:
Niêm mạc mũi rất dễ chảy máu vì có nhiều mạch máu và mạng lưới mao mạch dày đặc
Chẩn đoán chảy máu mũi dựa vào: chảy máu mũi từng giọt hay chảy liên tục từ hai hốc mũi. Khám mũi với mục đích cố gắng tìm nguồn gốc chảy máu.
Độ trầm trọng của chảy máu mũi được phán đoán dựa vào các dấu hiệu của choáng: mạch nhanh, huyết áp kẹp, da xanh tái, khát nước, đổ mồ hôi, lạnh các chi… đi dần đến khó thở, phải tìm các dấu hiệu này bởi vì:
Phải tìm bệnh cao huyết áp một cách hệ thống đồng thời phải phán đoán cơ địa bệnh nhân vì trong trường hợp chảy máu mũi nhiều, bệnh cảnh sẽ trở nên phức tạp hơn bởi sự mất bù do suy yếu thể trạng, đặc biệt ở người già.
Có thể bạn quan tâm:
Cấp cứu một bệnh nhân chảy máu mũi, phải nhanh chóng cầm máu rồi sau đó mới tìm nguyên nhân. Trường hợp chảy máu nặng phải chú ý tình trạng toàn thân của bệnh nhân bằng việc theo dõi sát mạch, huyết áp. Bệnh nhân cần được nghỉ ngơi yên tĩnh, ngồi hoặc nằm đầu cao, há miệng để thở và nhổ máu ra. Truyền dịch nếu có bệnh nhân bị trụy mạch, hạ huyết áp.
Truyền máu nếu Hb thấp dưới 50%, nhất là trường hợp chảy máu nặng, tốt nhất là truyền máu tươi liều nhỏ (100ml) nhiều lần.
Trường hợp chảy máu nặng tốt nhất là truyền máu tươi liều nhỏ (100ml) nhiều lần
Thuốc corticoid như depersolone tiêm tĩnh mạch được sử dụng trong chảy máu là cần thiết, nếu không có chống chỉ định. Dùng kháng sinh đề phòng nhiễm khuẩn.
Dùng thuốc đông máu để làm tăng vững bền thành mạch, giảm thời gian chảy máu như adrenoxyl, premarin, tranesamic acid… hoặc trực tiếp làm đông máu như vitamin K, sulfate de protamine. Cầm máu tại chỗ được thực hiện từ đơn giản đến phức tạp theo các bước sau:
Dùng hai ngón tay bóp nhẹ cánh mũi ép vào vách ngăn tương ứng điểm mạch Kisselbach trong vài phút, áp dụng trong trường hợp chảy máu ít, chảy máu ở điểm mạch Kisselbach.
Dùng bông có tẩm dung dịch cầm máu như ôxy già 12 thể tích, ephedrin 1-3% nhét vào lỗ mũi, ép đè lên chỗ chảy máu.
Nhét mechè mũi trước: sau khi gây tê hốc mũi, dùng cuộn mechè có bề rộng 1 – 1,5cm, bề dài 50cm tẩm mỡ kháng sinh nhét vào mũi, chú ý nhét mechè có hình đáy võng để mechè không bị tụt xuống thành sau họng, nhét chặt từ sau ra trước cho tới khi đầy ra tận cửa mũi trước.
Dùng đè lưỡi kiểm tra xem máu có chảy xuống thành sau họng hay không, nếu không thấy chảy xuống là tốt. Thời gian lưu mechè từ 24 – 48 giờ.
Trường hợp chảy máu nhiều do chấn thương, tăng huyết áp… nếu nhét mechè mũi trước mà chưa cầm máu thì phải nhét mechè mũi sau.
Nhét mechè mũi sau: dùng cục gạc bịt kín cửa mũi sau để ngăn không cho máu chảy xuống thành sau họng, đường kính cục gạc khoảng 2 – 2,5cm, chiều cao 2,5cm có buộc dây ở giữa, mỗi đầu dài khoảng 30cm. Sau khi bịt kín được cửa mũi sau, phải tiếp tục nhét mechè mũi trước.
Trường hợp chảy máu mao mạch, nhất là ở trẻ em, có thể dùng các loại protein tự tiêu có tác dụng cầm máu như spongel.
Ở nhiều nước có nền y học tiên tiến, người ta dùng Merocel là một loại bọt xốp có hình hố mũi, đặt vào mũi, tưới nước, nó nở căng to ôm khít lòng hố mũi, máu cầm ngay mà bệnh nhân không đau. Hoặc dùng bong bóng cao su cho vào mũi rồi bơm căng, lúc lấy ra chỉ cần xì hơi, rất tiện.
Merocel là một loại bọt xốp có hình hố mũi, đặt vào mũi ôm khít lòng hố mũi
Hiện nay ở nước ta đã dùng đông điện dưới sự hướng dẫn của nội soi để cầm máu được áp dụng rộng rãi.
Các trường hợp phức tạp phải điều trị ngoại khoa: nút mạch, thắt động mạch, điều trị nguyên nhân.
**Lưu ý: Những thông tin cung cấp trong bài viết của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc mang tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Người bệnh không được tự ý mua thuốc để điều trị. Để biết chính xác tình trạng bệnh lý, người bệnh cần tới các bệnh viện để được bác sĩ thăm khám trực tiếp, chẩn đoán và tư vấn phác đồ điều trị hợp lý.
Theo dõi fanpage của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc để biết thêm thông tin bổ ích khác: https://www.facebook.com/BenhvienHongNgoc/